Tưởng niệm Hoàng_Diệu

Câu đối hai bên cổng Trung Liệt miếu trên Gò Đống Đa để tưởng nhớ Hoàng Diệu.

Hoàng Diệu được đông đảo sĩ phu, nhân dân Hà Nội và Bắc Hà khâm phục thương tiếc. Ông được thờ trong đền Trung Liệt (cùng với Nguyễn Tri Phương) trên gò Đống Đa với câu đối:

Thử thành quách, thử giang sơn, bách chiến phong trần dư xích địaVi nhật tinh, vi hà nhạc, thập niên tâm sự vọng thanh thiên

Dịch:

Kia thành quách, kia non sông, trăm trận phong trần còn thước đấtLà trời sao, là sông núi, mười năm tâm sự với trời xanh

Vua Tự Đức mặc dầu không ủng hộ Hoàng Diệu trong việc chống đối với quân Pháp tại thành Hà Nội, vẫn phải hạ chiếu khen ông đã tận trung tử tiết, sai quân tỉnh Quảng Nam làm lễ quốc tang.

Tôn Thất Thuyết, một đại biểu nổi tiếng của sĩ phu kiên quyết chống Pháp đã ca ngợi ông trong hai câu đối:

Nhất tử thành danh, tự cổ anh hùng phi sở nguyệnBình sanh trung nghĩa, đương niên đại cuộc khởi vô tâm

Dịch:

Một chết đã thành danh, đâu phải anh hùng từng nguyện trướcBình sanh trung nghĩa, đương trường đại cuộc tất lưu tâm

Cụ Phó bảng Nguyễn Trọng Tỉnh có bài thơ điếu Hoàng Diệu, ghi lại trong Lịch sử vua quan nhà Nguyễn của Phạm Khắc Hòe như sau:

Tay đã cầm bút lại cầm binhMuôn dặm giang sơn nặng một minhThờ chúa, chúa lo, lo với chúaGiữ thành, thành mất, mất theo thànhSuối vàng ắt hẳn mài gươm bạcLòng đỏ thôi đành gửi sử xanhDi biểu nay còn sôi chính khíKhiến người thêm trọng bút khoa danh.

Trích hai đoạn bút ký:

Tôi có đi thăm mộ cụ Hoàng Diệu ở giữa cánh đồng Xuân Đài. Mộ không bề thế như tôi tưởng, còn quá nhỏ so với lăng mộ của những viên quan lớn vô tích sự trên triều đình Huế mà tôi vẫn thường thấy. Mộ là một nắm vôi khô nằm vùi giữa đồng cỏ voi, xa khu dân cư......Hồi nhỏ nhà nghèo, mẹ chăn tằm dệt lụa nuôi con ăn học. Hoàng Diệu lớn lên bằng tuổi trẻ gian khổ ở làng quê, buổi sáng sớm đi học chỉ súc miệng và nhịn đói, trưa về ăn một chén bắp nấu đậu, đến tối cả nhà chia mỗi người một bát cơm. Ngày nghe tin chồng tuẫn tiết, bà Hoàng Diệu đang cuốc cỏ lá de, ngất xỉu ngay trên bờ ruộng...Làm quan Tổng đốc mà nhà còn nghèo đến thế, huống là nhà dân...[6]Đi thăm mộ Hoàng Diệu, (nghe) lúc làm quan, có lần ông gửi về cho mẹ một vóc lụa. Bà mẹ không nhận, gửi trả lại cho con, kèm theo một nhánh dâu, tượng trưng cho ngọn roi, để cảnh cáo đứa con đừng nhận quà cáp gì của dân.[7]
  • Mượn ý bài "Chính khí ca" của Văn Thiên Tường, một Thừa tướng thời Tống mạt giúp vua không thành công và nguyện chết theo nhà Tống chứ không chịu đầu hàng nhà Nguyên - Ba Giai (Nguyễn Văn Giai) đã làm thành bài "Hà thành chính khí ca", ca ngợi lòng yêu nước và chí khí trung nghĩa lẫm liệt, thà chết chứ không chịu khuất phục của Tổng đốc Hoàng Diệu. Dưới đây là bài Hà thành chính khí ca (bản đã được in trong sách Văn cấp 3 cũ):
Một vừng chính khí lưu hình,Khoảng trong trời đất nhật, tinh, sơn, hà,Hạo nhiên ở tại người ta,Tấc gang son sắt hiện ra khi cùng.Hơn thua trong vận truân phong,Nghìn thu để tiếng anh hùng sử xanh.Có quan tổng đốc Hà NinhHiệu là Quang Viễn, trung trinh ai bằng?Lâm nguy, lý hiểm đã từng,Vâng ra trọng trấn mới chừng ba nămThôn Hồ dạ vốn nhăm nhăm,Ngoài tuy giao tiếp, trong chăm những là...Vừa năm Nhâm Ngọ, tháng ba,Sáng mai mồng tám, bước qua giờ thìn,Biết cơ trước đã giữ gìn,Hơn trăm vũ sĩ, vài nghìn tinh binh.Tiên nghiêm lên đóng trên thành,Thệ sư rót chén rượu quỳnh đầy vơi.Văn quan vũ tướng nghe lời,Hầm hầm xin quyết một bài tận trung.Ra oai xuống lệnh vừa xong,Bỗng nghe ngoài đã đùng đùng pháo ran.Tiêm cừu nổi giận xung quan,Quyết rằng chẳng để chi đàn chó dê.Lửa phun súng phát bốn bề,Khiến loài bạch quỷ hồn lìa phách xiêuBắn ra nghe chết cũng nhiềuPhố phường nghe thấy, tiếng reo ầm ầm.Quan quân đắc chí bình tâm,Cửa Đông, cửa Bắc vẫn cầm vững binh.Chém cha cái lũ hôi tanhPhen này quét sạch sành sanh mới là!Nào ngờ thất ý tại ta,Rõ ràng thắng trạng, hóa mà thua cơ!Nội công rắp những bao giờ,Thấy kho thuốc cháy, ngọn cờ ngả theoQuan quân sợ chết thảy đều,Cửa Tây, Bạch quỷ đánh liều trèo lên.Nào ai cơm áo dốc đền?Nào ai gìn giữ vững bền ba quân?Nào ai còn chí kinh luân?Nào ai nghĩ đến thánh quân trên đầu?Một cơn gió thảm mưa sầu,Nấu nung gan sắt, dãi dầu lòng son,Chữ trung còn chút con con,Quyết đem gửi cái tàn hồn gốc cây.Trời cao biển rộng đất dày,Núi Nùng sông Nhị chốn này làm ghi!Thương thay gặp buổi truân nguy,Lòng riêng ai chẳng thương vì người trung!Rủ nhau tiền góp của chung,Rước người ra táng ở trong học đường.Đau đớn nhẽ, ngẩn ngơ dường!Tả tơi thành quách, tồi tàn cỏ hoa!Kể từ năm Dậu bao xa,Đến nay tính đốt phỏng đà mười niên.Long thành thất thủ hai phen,Kho tàng hết sạch, quân quyền dời tan.Đổi thay trải mấy ông quan,Quyên sinh tựu nghĩa, có gan mấy người?Trước quan Võ hiển khâm sai,Sau quan Tổng đốc một vài mà thôi.Ngoài ra võ giáp văn khôi,Quan, bào, trâm, hốt nhác coi, ngỡ là...Khi bình làm hại dân ta,Túi tham mở rộng chẳng tha miếng gì.Đến khi hoạn nạn lâm nguy,Mặt trông ngơ ngác, chân đi gập ghềnh.Võ như đề đốc Lê Trinh,Cùng là chánh phó lãnh binh một đoàn,Đang khi giao chiến ngang tàng,Thấy cơ hầu đổ vội vàng nhót ngay.Nghĩ xem thật cũng ghê thay,Bảo thân chước ấy ai bày sẵn cho?Lại còn nghe những mơ hồRằng quan đề đốc dưới hồ cửa tây;Kẻ rằng: treo ở cành câyKẻ rằng: hẳn dưới giếng này chẳng chơi.Thăm tìm ngày một ngày hai,Định rằng hợp táng ở nơi học đường.Hỏi ra sau mới tỏ tường,Cũng loài úy tử, cũng phường tham sinh.Phép công nên bắt gia hình,Rồi ra nặng chữ nhân tình lại thôi.Văn như Tuần phủ nực cười,Bình Chi là hiệu, năm mươi tuổi già.Biết bao cơm áo nước nhà?Kể trong sĩ tịch cũng là đại viên.Chén son chưa cạn lời nguyền,Thế mà bỗng chốc quên liền ngay đi?Lại còn quanh quẩn làm chi?Hay là thương tiếc vật gì ở đây?Hay là có chước bình Tây,Trước kia hoảng hốt sau này nghiên tinh?Hay là tiếc cái xuân xanh?Tìm nơi kiếm chốn gieo mình trú chân?Hay là còn chút từ thân,Đã toan tịch cốc mấy lần lại thôi!Sao không biết xấu với đời?Sao không biết thẹn với người tử trung?Kìa Tôn Thất Bá niết công,Kim chi ngọc diệp, vốn dòng tôn nhân,Đã quốc tộc, lại vương thần,Cũng nên hết sức kinh luân mới là...Nước non vẫn nước non nhà,Nỡ nào bán rẻ một tòa Thăng Long?Thề xưa liệu đã chẳng xong,Mặt nào còn đứng trong vòng lưỡng gian.Tư giao rắp những mưu gian,Thừa cơ xin dự hội thương ra ngoài.Ấy mới khôn, ấy mới tài,Lẩn đi tránh tiếng, giục người nói quanh.Dâng công quyền lĩnh tỉnh thành,Mà toan đổ tội một mình quan trên.Tội danh thật đã quả nhiên,Xin đem giao xuống cửu nguyên chế đài.Lân la kể đến phiên đài,Xỉ ban cũng đã tuổi ngoài sáu mươi.Thác trong thôi cũng nên đời.Sống thừa chỉ để kẻ cười, người chê!Nhị hà, Tản lĩnh đi về,Giang sơn tuyết chở, sương che cũng liều!Còn như ty thuộc hạ liêu,Kẻ công người quá còn nhiều:chan chan,Biết đâu cho khắp mà bàn,Sau này đã có sử quan thẩm bình,Trước rèm gió mát trăng thanhThừa lương nhân chốn nhàn đình thong dong.Xa trông tút vút Bình phong,Chúc mừng vạn thọ thánh cung lâu dài!Rồi ra cá nước duyên hài,Ra tay khang tế, giở tài kinh luân.Đã thánh quân lại hiền thần,Có đâu mà chẳng quần dân thái hòa!Bấy giờ ta lại với ta,Tỉnh say dật hứng, ngâm nga tiêu sầu.Hà thành văn vũ công hầu,Càng nghe thấy chuyện càng rầu bên tai!Diễn ca Chính khí một bài,Để cho thiên hạ người người khuyên răn.